Thứ Hai, 17 tháng 7, 2017

Người vợ tài danh của vua T��� Đức

Theo bài vị tại văn bia, vua Tự Đức có 103 bà vợ được chia theo 9 bậc. đại đa số bà vợ có đẳng cấp cao là con quan đại thần, cùng với đó có một bà hàng Tiệp dư tên Nguyễn Thị Bích rất tuyệt chữ.

Theo sách Đại Nam liệt truyện, bà Nguyễn Thị Bích tự Lang Hoàn sinh năm 1830 quê huyện An Phúc (Bình Thuận), là con gái thứ tư của Bố chính sứ hộ lý tổng đốc TP T.Hóa Nguyễn Nhược Sơn. khi bé, bà thông minh sáng dạ, có tiếng về văn chương. Năm 1848, khi 19 tuổi, bà được tiến vào cung.

Trong một buổi ngâm vịnh, vua Tự Đức bảo bà làm bài thơ tảo mai. Bài thơ được vua khen hay, thưởng 20 đỉnh bạc, tuyển vào cung sung công tác ở viện Thượng nghi. Năm thứ ba vào cung, bà được phong làm Tài nhân và hầu vua. Là người thông minh sáng dạ, bà được vua Tự Đức sủng ái, dạy cho làm thơ và trở thành nữ môn đệ của vua Tự Đức.

Năm thứ 13 thời vua Tự Đức, bà được phong làm mỹ nhân, sau đó tấn phong làm quý nhân, tiệp dư. Với tài trí thông minh, bà được vua Tự Đức sai dạy kinh điển và dạy tập nội đình cho những hoàng tử. những hoàng tử con nuôi của vua Tự Đức bà chỉ dạy tương lai trở lên thành vua là Đồng Khánh và Kiến Phúc.

nguoi-vo-tai-danh-lam-phu-tu-cua-vua-tu-duc

Lăng vua Tự Đức, nơi có thờ bài vị các bà vợ của vua. Ảnh: Võ Thạnh.

Vào năm 1883, vua Tự Đức mất, vâng ý chỉ của hai cung là bà Đức Từ Dũ mẹ vua Tự Đức và bà Trang Ý vợ chính vua Tự Đức, bà đã thảo sắc dụ.

Trong sự kiện kinh thành Huế thất thủ năm 1885, bà theo vua Hàm Nghi và 2 cung đi Quảng Trị. tuy vậy sau lúc ra Quảng Trị, thấy sức khỏe hai cung ko tốt, nặng nhọc bà đã theo quay về kinh kì Huế, tiếp đến lên Khiêm Lăng phụng thờ vua Tự Đức và chịu sự quản chế của người Pháp.

Theo cuốn Chuyện nội cung nhiều vua của Nguyễn Đắc Xuân, bà Nguyễn Thị Bích đã kế bên cạnh vua Tự Đức và chứng kiến những sự kiện diễn ra ở triều đình Huế từ sau ngày vua Tự Đức mất. Với sự thông thuộc của mình, bà đã viết tác phẩm Loan Dư Hạnh Thục Quốc Âm Ca (thường gọi tắt là Hạnh Thục Ca).

Với lời thơ thanh tao, nhạc điệu nhẹ nhàng, phảng phất nỗi buồn, Hạnh Thục Ca kể lại việc thực dân Pháp xâm chiếm việt nam, ngợi ca đức độ của vua Tự Đức, nhắc tới việc nhà vua nuôi nhiều con nuôi, đề cập việc đại thần Nguyễn Văn Tường và hoàng thất Thuyết truất phế lập các vua Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi...

Bên cạnh đó, Hạnh Thục Ca còn đả động việc vua Đồng Khánh băng hà, vua Thành Thái lên ngôi. Đoạn sau cùng của Hạnh Thục Ca đề cập lễ bát tuần của bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức.

Năm Thành Thái thứ 3 (1891), lần trước hết triều đình Huế tiến hành tổ chức lễ tế đàn Nam Giao sau ngày đế đô Huế thất thủ (5/1885). Bà Tiệp dư Nguyễn Thị Bích đã làm bài thơ chữ Hán đả động sự kiện này, biểu lộ sự mừng rỡ về vua Thành Thái trẻ tuổi mặc dù vậy có lòng với tiên tổ, biết nối lại khuôn khổ, khởi sắc lễ tế đàn Nam giao với lễ nhạc đầy đủ mong nước non yên bình.

Không chỉ làm thơ, bà Tiệp dư Nguyễn Thị Bích đã thảo ra nhiều chỉ dụ của triều đình Nguyễn theo ý của 2 cung.

Trước các đóng góp khá lớn đối với triều Nguyễn, vào năm 1892, bà được vua Thành Thái tấn phong lên chức Tam phi Lễ tân. Năm Duy Tân thứ 3 (1909), bà mất, hưởng thọ 80 tuổi.

Võ Thạnh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét