Thứ Năm, 31 tháng 8, 2017

Những trí thức lớn người Việt từng học trường Pháp

Kéo dài sắp một thế kỷ, nền giáo dục Pháp tại đất nước việt nam được đánh giá trái chiều. Năm 1905, Phan Bội Châu cho là Pháp "chỉ dạy viết văn Pháp, nói tiếng Pháp, tạm thời làm nô lệ cho Pháp". Song mặt lạc quan ngoài ý muốn của Pháp là làm nên tầng lớp kiến thức có năng lực đại học, nắm vững khoa học - công nghệ, k/thuật hiện đại.

Nhà bách khoa của thời đại 20 Đào Duy Anh

Đào Duy Anh (1904-1988) là nhà sử học, địa lý, tự điển học, ngôn ngữ học, nhà phân tích tập quán, tôn giáo, văn học dân gian nổi tiếng của đất nước việt nam. Ông sinh ở Thanh Hóa, nguyên quán huyện Thanh Oai, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).

Năm 1923, ông tốt nghiệp Thành chung (trường Quốc học Huế) rồi ra dạy học trường Đồng Hới (Quảng Bình). Ba năm sau, ông tham gia sáng lập báo Tiếng Dân cùng Huỳnh Thúc Kháng rồi gia nhập đất nước việt nam cách mệnh Đảng (sau là Đảng Tân Việt).

nhung-tri-thuc-lon-nguoi-viet-tung-hoc-truong-phap

Vợ chồng giáo sư Đào Duy Anh. Ảnh tư liệu

Lĩnh vực khoa học thứ nhất mà Đào Duy Anh quan tâm là từ điển học. Ông lần lượt hoàn thiện và xuất bản Hán - Việt từ điển (1932) và Pháp - Việt từ điển (1936). Đây là phương tiện tra cứu rất cấp thiết cho nhiều thế hệ học trò trung học, được ví như cầu nối giữa lớp người già theo Nho học và lớp người trẻ theo Tây học.

Gần 40 năm sau, ông cho ra đời tự điển độc đáo - mới lạ, chuyên dụng Từ điển Truyện Kiều (1974). Tuy không phải người soạn thảo bộ từ điển trước nhất của việt nam, tuy vậy Đào Duy Anh đã đặt cơ sở cho nền tự điển học hiện đại.

Trong lĩnh vực sử học, năm 1938, tác phẩm Việt Nam văn hoá sử cương của ông song song với Văn minh An Nam (la Civilization Annamite, 1944) của Nguyễn Văn Huyên đã đánh dấu và đặt nền móng tạo nên nền văn hóa học việt nam tiên tiến trên ý thức khoa học - công nghệ, dân tộc.

Một số tác phẩm tiêu biểu của ông trong mảng này như Khổng giáo phê bình tiểu luận (1938), Trung Hoa sử cương (1942), Khảo luận về Kim Vân Kiều (1943) được giới tri thức nội địa và các học giả thế giới đón nhận, hoan nghênh.

Ông tự tích lũy tri thức về những ngành khoa học - công nghệ xã hội khác như Triết học, nhân chủng học, Xã hội học bằng phương pháp luận sử học và tư liệu lịch sử. Từ một người tốt nghiệp Thành chung, bằng ý chí tự học, Đào Duy Anh đã trở thành nhà bách khoa của kỷ nguyên.

Tôn Thất Tùng - thầy thuốc nổi tiếng thế giới 

Giáo sư tôn thất Tùng (1912-1982) là y sĩ nổi tiếng ở đất nước việt nam và thế giới trong lĩnh phẫu thuật gan. Ông sinh năm 1912 tại TP T.Hóa và lớn lên ở Huế.

Xuất thân từ g.đình quan lại nhà Nguyễn tuy thế ông không theo nghiệp học làm quan. Năm 1931, ông ra thủ đô hà nội học ở trường Trung học bảo hộ, hai năm tiếp theo học trường y khoa thành phố hn - thành viên của Viện Đại học Đông Dương với quan niệm nghề y là nghề "tự do", ko phân biệt giai cấp.

nhung-tri-thuc-lon-nguoi-viet-tung-hoc-truong-phap-1

Giáo sư, bác sĩ tôn thất Tùng. Ảnh tư liệu

Một lần phát hiện gan của người bệnh có giun chui ở những đường mật, ông đã nảy ra ý tưởng dùng những lá gan bị nhiễm giun để phẫu tích cơ cấu của lá gan.

Liên tiếp các năm tiếp theo 1935-1939, chỉ bằng con dao nạo thô sơ, ông đã phẫu tích trên 200 lá gan của thi hài để nghiên cứu nhiều huyết mạch và vẽ lại thành sơ đồ đối chiếu. trên tài sở đó, ông đã viết và gìn giữ thành công tốt đẹp luận án tốt nghiệp bác sĩ y học với nhan đề "Cách chia rẽ mạch máu của gan".

Bản luận án được nhận định cao và trở lên thành tiền đề cho những dự án khoa học - công nghệ nổi danh của ông. Với bản luận án này, hoàng tộc Tùng đã được Đại học tổng hợp Paris tặng huy chương bạc.

Khi hoàng gia Tùng trở thành thầy thuốc nội trú ở phòng khám đa khoa Phủ Doãn (tiền thân của phòng y khoa Việt Đức ngày nay), sau những lần cắt gan người chết, ông đề xuất với thầy hướng dẫn về phương pháp của mình. Phương pháp này sau đó được gửi Viện Hàn lâm giải phẫu Paris và bị giáo sư đầu ngành công kích dữ dội, vì ý tưởng của tôn thất Tùng quá mới.

Mãi đến năm 1952, tại hội nghị giải phẫu quốc tế ở Copenhaghen (Đan Mạch) phương pháp cắt gan có quy phạm của ông mới được thú nhận. hoàng tộc Tùng được giới y khoa quốc tế chú ý và tán dương là "người cha của cắt gan có quy phạm".

Sau này, ông có rất nhiều cống hiến cho ngành y học việt nam trên cương vị Chủ nhiệm Bộ môn Ngoại khoa (Đại học Y Hà Nội), giám đốc bệnh viện Việt - Đức, Thứ trưởng Y tế nước việt nam Dân chủ Cộng hòa.

Giáo sư Hoàng Như Mai - Học giả bậc nhất trong nghiên cứu văn học

GS.NGND Hoàng Như Mai (1919-2013) quê gốc thành phố hà nội, sinh ra và lớn lên tại phủ Lạng Thương (tỉnh Bắc Ninh). Ngày vào lớp đồng ấu (lớp 1 ngày nay), ông được một giáo viên già truyền tình ái văn học, qua các bài giảng chữ Nho, chữ quốc ngữ và nhiều bài Pháp văn.

Hồi 8-9 tuổi, có lần ông được người anh dẫn lên tp hà nội vào rạp chiếu bóng chơi, được tận mắt nghe câu thoại của nam diễn viên với người thương "Đôi mắt em xanh như nước biển Địa Trung Hải" bằng tiếng Pháp. Câu thoại đó cứ vấn vương mãi trong đầu cậu bé lâu đời mai sau.

Học xong tiểu học, ông lên thành phố hà nội vào trường Trung học bảo chứng (trường Bưởi) trong h.thống giáo dục Pháp - Việt, được học chương trình văn học Pháp gồm các tác gia lớn của kỷ nguyên 16-18 và các tác giả lãng mạn thời đại 19.

Cuốn tiểu thuyết gây chú ý mạnh lúc đầu cho ông là Graziella của Lamartine, đ-biệt là bài thơ hoài niệm cuối sách Mối hận trước tiên được Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra tiếng Việt. Sáu bảy chục năm tiếp theo ông vẫn thuộc lòng những đoạn trong tiểu thuyết này.

nhung-tri-thuc-lon-nguoi-viet-tung-hoc-truong-phap-2

Giáo sư Hoàng Như Mai. Ảnh: Đại học Văn Hiến

Những năm học trường Bưởi cũng được xem như là thời điểm phong trào Thơ Mới nở rộ nên thế hệ của Hoàng Như Mai đã tìm được những nhà thơ cho riêng mình. Ông khâm phục Xuân Diệu dù vậy thích đọc nhất là Thế Lữ, J.Leiba Thái Can, Lưu Trọng Lư và tương lai là Vũ Hoàng Chương, Trần Huyền Trân.

Tiếp đó, Hoàng Như Mai tuần tự theo học ở Đại học y học và Đại học Luật khoa Đông Dương tại hn. Năm 1943, lúc đang là sinh viên Đại học Luật, ông bắt đầu đứng trên bục giảng ở trường Trung học tư thục Đông Hải (Hải Dương).

Năm năm sau, ông được Tỉnh bộ Việt Minh tỉnh thăng bình mời làm hiệu trưởng trường Trung học Phan Thanh. sau đó, ông lần lượt làm giảng sư, hiệu trưởng tại các trường Sư phạm Việt Bắc (1951), Sư phạm Trung cấp trung ương (1953), Đại học tổng kết tp hà nội (1959), Đại học tổng kết tp.hcm (1980).

Ông để lại di sản tìm hiểu văn chương khá đồ sộ. Bộ giáo trình Văn học việt nam tiên tiến (1945-1960) của Hoàng Như Mai có trị giá rất riêng, bởi đây là dự án trước tiên mang tính bước nhảy, tìm hiểu về một hành trình văn học còn sốt dẻo tươi nguyên so với thời đoạn đó.

Các tập chuyên luận, tiểu luận về thơ Thơ một thời, Bản sắc dân tộc trong thơ Hồ Chí Minh hay sàn diễn Nhận định về cải lương", Trần Hữu Trang - soạn giả cải lương đến nay vẫn nguyên ý nghĩa - giá trị cho giới nghiên cứu.

Trong lĩnh vực sàn diễn kịch nói, giáo sư Hoàng Như Mai cũng để lại dấu ấn với nhiều tác phẩm tìm hiểu Tiếng trống thành phố hà nội, Dòng sông biên giới, Vẽ chân dung cụ Đồ Chiểu.

Ngoài ba trí thức trên, còn phần lớn mọi người trưởng thành từ nền giáo dục thời Pháp thuộc, như: giáo sư Hoàng Minh Giám (1904-1995); giáo sư Nguyễn Lân (1906-2003); giáo sư, viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn (1905-1993); nhà nông học Lương Định Của (1920-1975); giáo sư Toán học Nguyễn Cảnh Toàn (1926-2017)...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét