- Bộ GD&ĐT cho hay gần tới sẽ chi tiết hóa chủ trương chính sách chuyển dần thể chế biên chế trong giáo dục sang hợp đồng. Ông nhận định thế nào về chủ trương chính sách này?
- Một nền giáo dục muốn động viên học trò đổi mới sáng tạo thì phải dân chủ, tự do, để được quyền lựa chọn, biểu thị mong muốn được của mình. học trò phải được quyền lựa chọn ai dạy mình và học cái gì. Nhà trường cũng phải đáp ứng được những điều học trò muốn, chứ chẳng phải tôi có thầy giáo như thế và chỉ được như thế, học sinh bắt buộc phải học.
Để đáp ứng điều này phải đổi thay nhiều thứ, trong đó có biên chế giáo viên. Tôi hoàn toàn tán đồng chủ trương của Bộ Giáo dục & Đào tạo. Biên chế là cột cứng một người vào một vị trí và cứ thế tiến hành nghĩa vụ. Còn nếu không biên chế, thực hành ký hợp đồng, thì khi trường có nhu cầu người cung ứng tri thức ra sao sẽ đặt vấn đề tuyển dụng người như thế. lúc người này không đạt yêu cầu hoặc có nhu cầu cung cấp ko còn phù hợp thì nhà trường có quyền dừng giao kèo.
Như vậy, biên chế không phải chỉ liên quan đến thầy giáo mà còn là sự thay đổi quan niệm về bài toán cung cấp dịch vụ giáo dục cho xã hội.
Đại biểu Hoàng Văn Cường, hiệu phó ĐH Kinh tế quốc dân. Ảnh: Võ Hải |
- Việc đổi thay từ biên chế sang hợp đồng còn những lợi ích gì khác, thưa ông?
- Cái tốt trước tiên là mang lại ích lợi cho nhà trường, cho xã hội, học trò. học sinh được lựa chọn người thầy giảng dạy mà các em thích thú. Điều này quyết định quan trọng đến sự hứng khởi của học sinh. Nếu học mà bị gò ép, phải học người không thích thì sẽ tạo ra sự ức chế.
Giá trị thứ hai là bản thân nhà trường và xã hội có điều kiện chọn lựa các người giỏi nhất để dùng. Và thứ ba là đổi thay này cũng tốt cho thầy giáo. thầy giáo sẽ có cơ hội nỗ lực đi lên, nếu giỏi sẽ được vào các trường tốt hơn, ở địa điểm tốt hơn.
Bản chất con người ai cũng muốn vươn lên, ko ai muốn đứng yên một chỗ. dù vậy vì đã biên chế ở vị trí này, dù có dạy tốt hơn nữa thì thầy giáo cũng chỉ thế thôi, thế thì quyết tâm làm gì. tuy nhiên ở thể chế hợp đồng, nếu quyết tâm thầy giáo sẽ tại vị trí địa lý cao hơn, dạy được tại trường tốt hơn, làm được việc hay hơn. như vậy, mỗi người thầy giáo cũng có tương đối nhiều lợi thế. khi xã hội chọn lựa, cá nhân sẽ khả quan cố gắng.
- Ông nghĩ sao về việc khi chuyển sang chủ trương chính sách giao kèo, quyền bính sẽ tập trung ở hiệu trưởng và khiến cho sự lạm quyền?
- một số người ngại ngùng là lúc chuyển sang giao kèo giáo viên mất quyền sáng tạo, diễn đạt chính kiến và phụ thuộc vào nhà vận hành, hoặc có sự nhận định không công bằng giữa người có khả năng thật sự và người không có khả năng. tuy thế, đây là bài toán khác. Đi liền với thể chế đổi thay từ biên chế sang chủ trương tuyển dụng này chúng mình phải có chủ trương đánh giá. Làm sao để nhận định được người này hơn người kia, từ đó ký hợp đồng.
Trong chủ trương chính sách nhận định, học sinh, cha mẹ giữ vai trò cấp thiết. Chính phụ huynh sẽ quyết định việc lựa chọn trường, lớp cho con. Tiếp đó còn có sự đánh giá giữa đồng nghiệp với nhau và cuối cùng mới đến người điều khiển vận hành đánh giá. Người điều hành phải tổng kết các đánh giá trên để đưa ra quyết định tiếp tục ký giao kèo với ai, ai phải ra đi.
Bên cạnh giáo viên thì còn phải đánh giá cả người vận hành, ông hiệu trưởng cũng phải thực hành đúng chủ trương này. Nếu hiệu trưởng chọn được đúng thầy giáo tốt thì trường sẽ lớn mạnh, được nhận định cao, hoàn thiện nghĩa vụ. Nếu ông ta bỏ quá hết ý kiến nhận định của học trò, phụ huynh, thầy giáo, thì sẽ bị các người này phản ứng. Ông ta không hoàn tất trách nhiệm và phải ra đi. Làm ko tốt thì hiệu trưởng là người mất vị trí địa lý đầu tiên chứ ko phải giáo viên.
Với cơ chế đánh giá như thế thì ko cần phiền muộn chuyện giáo viên cập kênh hay người tốt thì chẳng thể tồn tại.
- vấn đề lương thầy giáo sẽ được thực hành thế nào khi chuyển từ biên chế sang giao kèo?
- Chuyển từ biên chế sang hợp đồng không những có lợi cho ngân sách mà giáo viên cũng có cơ hội tiền lương tốt hơn. Hiện giáo viên nhận lương theo bậc, biên chế, thâm niên, ko cần biết giỏi hay không. Có thầy giáo ko dạy tốt nhưng lương vẫn cao vì làm việc lâu đời, có người dạy tốt tuy nhưng lương thấp vì mới ra trường.
Xóa biên chế là tăng tính tự chủ của các trường. học trò được quyền chọn trường tốt, thầy tốt, chuẩn bị trả học phí cao hơn trường ko tốt. những trường làm tốt điều này đương nhiên nguồn thu cao hơn, lương lậu người thầy tốt hơn. Việc này sẽ xử lý điều mà Bộ trưởng Giáo dục khúc mắc là lương bổng của giáo viên thấp. Với chính sách mới, thầy giáo có thể tăng thu nhập bằng chính trí óc của mình.
- hiện nay công chức, viên chức được quy định trong luật cán bộ công chức và luật viên chức. Vậy theo ông cần đổi thay cơ chế như thế nào để có thể xoá biên chế trong giáo dục?
- Muốn cải cách thành công tốt đẹp thì chủ trương chính sách phải đi trước một bước. Việc cải cách nền hành chánh, tinh giản biên chế quãng thời gian qua ko có tiến triển cũng được xem là do thể chế chưa mở đường. lúc này thấy được một cái lợi thì chúng ta phải làm ngay.
Hiện ngành giáo dục có chủ trương về tự chủ, các trường đại học đã làm. Vậy không có nguyên nhân gì ko thí điểm để đẩy việc này lên. Phải có thí điểm việc xóa bỏ biên chế, phải có nhiều doanh nghiệp tiên phong, từ đó có nhiều thay đổi cấp thiết trong cơ chế thì mới tạo nên sự bứt phá. Giáo dục muốn đổi thay trước nhất phải nâng cao uy tín chất lượng giáo viên.
Theo báo cáo của Bộ Nội vụ, từ đầu năm 2015 này đến giữa năm 2016, số biên chế tinh giản là 15.790, trong khi đề nghị là giảm 1,5% mỗi năm, tương đồng 40.000 người trên tổng số hơn 2,6 triệu công chức và viên chức. Riêng trong lĩnh vực giáo dục, hiện nay chỉ có khoảng 20 trường đh tự chủ, trong lúc cả nước có 400 đại học, cao đẳng. Với số lượng giáo viên đại học tới gần 70.000, giáo viên dạy nghề 75.600, Phó thủ tướng Vương Đình Huệ cho hay ngân sách tài chính nhà nước dành cho giáo dục hiện tới 80% là chi cho con người, còn lại chi cho hoạt động dạy học, nâng cao uy tín giáo trình. Tỷ lệ này không hợp lý, cần kiến trúc lại. Bộ tài chính thống kê, đến năm 2015 này, toàn quốc có hơn 30.200 công ty cơ đồ công lập đã được tự chủ ngân sách tài chính, song song với đó 3,7% tự đảm bảo phí tổn hoạt động, 35,8% đảm bảo một phần, và 60,5% đơn vị tổ chức do ngân quỹ nhà nước bảo đảm toàn bộ giá tiền hoạt động (tăng gần 5.900 đối với năm 2006). |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét