Chủ Nhật, 24 tháng 6, 2018

Nhà sử học, Giáo sư Phan Huy Lê qua đời

  • PGS Văn Như Cương qua đời ở tuổi 80
  • PGS Văn Như Cương tắt hơi tại tuổi 80

    PGS Văn Như Cương qua đời tại tuổi 80

  • PGS Văn Như Cương tắt hơi ở tuổi 80

    PGS Văn Như Cương tạ thế tại tuổi 80

Nhà sử học, Giáo sư Phan Huy Lê tạ thế - Ảnh 1.

GS Phan Huy Lê gần đây đời, hưởng thọ 84 tuổi

Trước khi nhập viện cách đây khoảng vài tuần, Giáo sư (GS) Phan Huy Lê còn tham dự chuyến công tác đi Trường Sa vào đầu tháng 6. sau đó, ông nhập viện cấp cứu vì bệnh tim và một vài bài toán về phổi.

GS Phan Huy Lê sinh ngày 23-2-1934 tại xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, một vùng quê văn hiến của xứ Nghệ, giàu truyền thống yêu nước, cách mạng, chịu thương chịu khó và hiếu học. Cả hai dòng họ nội, ngoại của GS Phan Huy Lê đều là những dòng họ khoa giáp nổi tiếng với những danh nhân bản hoá lớn như Phan Huy Cẩn, Phan Huy Ích, Phan Huy Thực, Phan Huy Vịnh, Phan Huy Chú, Cao Xuân Dục, Cao Xuân Tiếu, Cao Xuân Huy... Cụ thân sinh ông là Phan Huy Tùng, tiến sĩ Nho học, từng làm quan trong triều đình Huế, nổi danh thanh liêm, phúc đức, hiền lành, rất mực yêu con, quý cháu.

Năm 1952, khi 18 tuổi, ông rời g.đình ra học trù bị Đại học tại Thanh Hoá và nơi này ông có cơ hội được tiếp xúc với các trí thức cách mệnh số 1 của nước non. Vốn là học trò có năng năng khiếu và đam mê khoa học tự nhiên, ông dự định chọn toán - lý cho tương lai nghề nghiệp của mình, tuy nhiên chừng như số phận đã định trước cho ông cung đường phát triển thành nhà sử học. Ông dự cảm từ trong chiều sâu nguồn gốc đất nước việt nam có con đường đi của mình. 

Theo GS Nguyễn Quang Ngọc, Phó Chủ viên tịch Hội khoa học - công nghệ lai lịch đất nước việt nam, chính GS Trần Văn Giàu và GS Đào Duy Anh là những người trước hết nhận ra ở Phan Huy Lê phẩm chất quý giá này và hướng ông vào học Ban sử - địa, trường đh Sư phạm thành phố hà nội.

Năm 1956, trường đh tổng kết thủ đô hn ra đời gồm 4 khoa toán - lý, hoá - sinh, văn và sử. Phan Huy Lê vừa tốt nghiệp cử nhân sử - địa đang được nhận ngay vào Bộ môn lịch sử việt nam cổ trung đại, Khoa nguồn gốc dưới sự hướng dẫn trực tiếp của GS Đào Duy Anh.

Ngay từ lúc còn làm trợ lý giảng dạy, ông đang được những GS Trần Văn Giàu, Đào Duy Anh giao cho viết bài giảng và phụ trách nhiều việc làm của nhiều chuyên gia chân chính. có lẽ nào thành ra mà chỉ 2 năm sau, lúc GS Đào Duy Anh chuyển làm việc về Viện Sử học, mới 24 tuổi đời, ông đã vững vàng trong trọng trách của một Chủ nhiệm bộ môn đứng mũi chịu sào tổ chức và tiến hành xây dựng một ngành học giữ vị trí địa lý then chốt trong hệ thống nhiều môn học về khoa học - công nghệ xã hội đất nước việt nam.

Trong kháng chiến chống Mỹ, GS Phan Huy Lê chuyển sang tìm hiểu về những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và các trận đánh lớn trong lịch sử. Ông tiến hành tổ chức hàng loạt chuyến khảo sát điều tra thực địa ở nhiều vùng chiến trận, không chỉ mở thêm đáng kể nguồn sử liệu để hiểu một cách cụ thể và đa diện nhiều sự kiện lịch sử vốn được ghi chép kiệt lực cô đọng trong sử cũ, mà còn mở ra một phương hướng nghiên cứu và tập huấn mới, gắn chặt với có nhu cầu của sinh hoạt hiện tại. những dự án "Khởi nghĩa Lam Sơn"; "Truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam", "Một số trận quyết chiến chiến lược trong nơi sản xuất dân tộc", "Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 và 1288"... đã trở lên thành các tác phẩm nơi sản xuất quân sự điển hình. 

Sau ngày nước non đồng nhất, GS Phan Huy Lê vẫn sẽ dành nhiều tâm huyết cho mảng đề tài chống ngoại xâm. Khoảng 15 năm tính từ những năm 1975, ông viết đến trên 80 dự án loại này, đưa tổng số nhiều dự án về lai lịch chống ngoại xâm lên 120 (chiếm 26,97% trong số 445 dự án ông đã hoàn thành).

Cùng với nơi sản xuất quân sự, GS Phan Huy Lê còn dành nhiều thời gian cho chủ đề chế độ ruộng nương, dân cày, làng xã. từ năm 1980, GS Lê bắt đầu mở thêm sang nghiên cứu lĩnh vực văn hoá - truyền thống. những công trình tiêu biểu là "Truyền thống và cách mạng", "Các giá trị ý nghĩa truyền thống và con người đất nước việt nam hiện nay" (3 tập), "Chủ nghĩa yêu nước đất nước việt nam, truyền thống và hiện đại" và h.thống nhiều bài viết về di sản văn hoá Thăng Long - tp hn...

GS Nguyễn Quang Ngọc cho là nhiệm vụ lớn nhất nêu ra cho GS Phan Huy Lê chính là tổng hợp lai lịch núi sông. Ngay từ những năm 1959 ông đã có một tập bài giảng "Lịch sử đất nước việt nam từ 1406 đến 1858". liên tiếp 2 năm sau, ông cho xuất hiện "Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam" tập II (1960) và "Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam" tập III (1961), góp một phần hình thành quy mô của Khoa lai lịch. Năm 1971, ông cùng cố GS Trần Quốc Vượng viết "Lịch sử Việt Nam" tập I, được coi cuốn thông sử trước tiên của chế độ mới. Trong khoảng thời gian này, một loạt nhiều bài giảng, giáo trình khác về "Lịch sử Việt Nam" có mặt trên thị trường (vào nhiều năm 1966, 1970, 1978...) làm cơ sở cho sự hiện diện "Lịch sử Việt Nam" tập I (1983) - một cuốn sách tổng hợp lai lịch đất nước việt nam từ thời đoạn nguyên thuỷ đến thời đại thứ X tương đối đủ đầy và cập nhật. 

Đặc biệt mới đây, trong chủ đề khoa học - công nghệ độc lập cấp chính phủ - nhà nước xây dựng bộ sách "Lịch sử Việt Nam" 4 tập, GS. Phan Huy Lê vừa là chủ biên, vừa là tác giả chính của 2 tập I và II, được xem như tổng hợp cao nhất về công đoạn xuất xứ từ lai lịch tận đến giữa thế kỷ XIX.

Từ năm 1988 tận đến nay, GS Phan Huy Lê liên tiếp là Chủ viên tịch Hội khoa học nguồn gốc việt nam. Ông còn giữ cương vị lãnh đạo mấu chốt hay là uỷ viên của những Hội đồng Quốc gia như Hội đồng Quốc gia chỉ đạo soạn thảo sách tra từ vựng Bách khoa, Hội đồng chủ trương chính sách khoa học - công nghệ và kỹ thuật Quốc gia, Hội đồng học thuyết Trung ương, Hội đồng khoa học và tập huấn Đại học Quốc gia hn, Hội đồng Chức danh Giáo sư chính phủ - nhà nước, Hội đồng Quốc gia Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng nhà nước, Hội đồng Di sản phong tục Quốc gia... tại cương vị nào ông cũng đều có những đóng góp xuất sắc.

Ông được phong học hàm GS (1980), Nhà giáo ưu tú (1988), Nhà giáo dân chúng (1994); được tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì (1985), Huân chương lao động hạng nhất (1998), hạng Nhì (1994), hạng Ba (1974); được tặng Giải thưởng chính phủ (2000), Giải thưởng Quốc tế Văn hoá châu Á Fukuoka, Nhật Bản (1996), Huân chương Cành cọ Hàn lâm của chính phủ - nhà nước Pháp (2002).

yến oanh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét