Những ngày đầu tiên của năm 2017 chợt trở lên sôi động với "Hội nghị Diên Hồng" về giáo dục ĐH do Bộ Giáo Dục và Đào Tạo tổ chức. sau đó, Báo Người lao động kịp thời làm diễn đàn Giáo dục ĐH thụt lùi, vì đâu? (từ số ra ngày 9-1) với những quan điểm trằn trọc của những người làm trong lĩnh vực giáo dục.
Thật ra, chúng ta chẳng thể thoái thác thực tế rằng hằng ngày, trên những giảng đường ĐH ở việt nam đang đang có nhiều giảng viên nhiệt huyết tìm cách truyền đạt kiến thức cho sinh viên. cơ mà trong khi đó, cũng có không ít giảng viên, tôi tin là không biết chắc những gì đang giảng giải cho sinh viên vì có bao giờ thầy hoặc cô đang được trải nghiệm hay tiếp xúc thực tế về bài toán đang trình bày cho sinh viên đâu.
Ngay bản thân tôi, khi còn là sinh viên, với cuốn giáo trình "Thiết kế phôi" được photocopy lại lần thứ n nào đó từ cuốn giáo trình gốc có tuổi đời có lẽ còn lớn hơn tuổi của tôi, đọc chữ được chữ mất và cố gắng tưởng tượng ra cho được người ta đúc ra một chi tiết bằng kim khí như thế nào. cho đến khi trở thành giảng viên đứng lớp, phải thú thiệt rằng tôi cũng chẳng tự tin khi trình bày về công đoạn đúc kim khí cho sinh viên vì tôi có bao giờ được nhìn thấy nó đâu! Cho mãi tới mai sau khi tôi đã tiếp xúc những với thực tế sản xuất và bạo dạn cùng sinh viên tổ chức những buổi làm khung cát, rồi đúc ra những chi tiết đích thật đã giúp chẳng những sinh viên mà cả tôi học được cực nhiều điều hữu dụng cũng giống như tự tin hơn khi giảng dạy trên lớp. Nếu có quan điểm gì đóng góp cho diễn đàn này nhằm góp một phần tìm biện pháp nâng cao uy tín đào tạo nguồn nhân công cho sơn hà, tôi chỉ xin mạo muội đóng góp một vài quan điểm sau:
Đối với giảng viên: Phải có trải nghiệm thực tế, phải có kiến thức chuyên ngành sâu rộng về môn học mình cáng đáng thì mới bảo đảm được uy tín của công đoạn truyền thụ kiến thức trên lớp cho sinh viên. như vậy, ngoài công tác giảng dạy, những nhà điều hành giáo dục ĐH cần có những cơ chế hoặc quy định để khích lệ hoặc thậm chí bắt buộc giảng viên phải bảo đảm được trình độ chuyên ngành cũng giống như trình độ nghề nghiệp thực tế (năng lực nghề nghiệp ở đây không nên hiểu là lao động chân tay đơn giản mà phải hiểu là trình độ nghề nghiệp tương ứng với trình độ của giảng viên).
Sinh viên chính yếu học lý thuyết mà thiếu thực tế ở những doanh nghiệpẢnh: Tấn Thạnh
Đối với sinh viên: Ngoài việc học, nhận định kiến thức trên lớp ra thì điều cấp thiết là phải tạo điều kiện cho sinh viên được tiếp xúc với thực tế về ngành nghề mà sinh viên đang được đào tạo càng sớm càng tốt và càng những càng tốt. không có cách nào khác, những trường đại học phải xông xáo hơn trong cộng tác với những doanh nghiệp để tìm "nguồn" cho sinh viên trải nghiệm thực tế (hiện nay, chính yếu là những doanh nghiệp tìm đến những trường đại học để tìm kiếm sự cộng tác mà hiếm khi những trường đại học chủ động tìm đến những doanh nghiệp đề nghị hợp tác).
Đối với chương trình/quá trình đào tạo: Ngoài việc học lý thuyết trên lớp và thực hiện ở xưởng của trường thì nên có một công đoạn tập sự ở những doanh nghiệp (có thể theo mô hình Quality Aprenticeship như ở Mỹ do những doanh nghiệp VW, BMW, Siemens kết hợp với những trường nơi địa phương doanh nghiệp đặt nhà máy thực hiện). thật ra, hiện tất cả những chương trình giáo dục ĐH ở việt nam đều có nội dung về tập sự ở những doanh nghiệp (thường là dưới hình thức tập sự tốt nghiệp) cơ mà đa phần thời gian quá ngắn, từ 1 đến 3 tháng và tất cả đều mang tính hình thức.
Nếu muốn cải tiến uy tín của công đoạn tập sự tốt nghiệp này thì không có cách nào khác ngoài việc nhà trường và doanh nghiệp nơi thu nạp sinh viên phải ngồi lại với nhau, đàm phán - thương lượng về nội dung, đề nghị của công đoạn tập sự để từ đó hai bên hiểu nhau hơn, cộng tác tốt hơn cũng giống như đồng nhất về nội dung của đợt tập sự.
Giáo dục ĐH ngày nay ở việt nam đang thiếu đi sự liên kết với thực tế sản xuất, đào tạo phải gắn liền với sản xuất bởi lẽ nếu suy xét cho tỏ tường thì đào tạo là để chuyên dụng cho cho có nhu cầu nguồn nhân công từ thực tế sản xuất của nền kinh tế nước nhà đề ra.
Đã đến khi việt nam cần một cơ chế, cơ chế (luật hóa và có cơ sở pháp lý) để mở đường cho sự cộng tác đào tạo giữa những trường đại học và những doanh nghiệp, trong đó quy định rõ lợi quyền (miễn giảm thuế, tạo tiện lợi với việc tiếp cận dòng vốn chuyên dụng cho cho công tác đào tạo…) và bổn phận đóng góp (nếu không tham dự vào công tác đào tạo thì phải trả phí tổn đào tạo khi tuyển dụng chẳng hạn) của những doanh nghiệp với việc tham dự vào công đoạn đào tạo. Có như vậy, mới tạo động lực và sự Công bằng cho những doanh nghiệp tích cực tham dự vào công tác đào tạo nhân công.
(*) Xem Diễn đàn Giáo dục đại học thụt lùi, vì đâu?
Bài kỳ trước: Tăng tầm cỡ, hạ thấp chuẩn
Tăng chuẩn trình độ nghề nghiệp
Việt Nam đã thông qua chuẩn trình độ nghề nghiệp quốc gia với 8 bậc, trong đó bậc 5 tương hợp với trình độ tốt nghiệp CĐ và bậc 6 tương hợp với trình độ tốt nghiệp ĐH. Theo đề nghị của tôi, nên phân biệt rõ giữa Bachelor/Engineer (có thể là kỹ sư, cử nhân mới ra trường hoặc chưa có sự thừa nhận của hiệp hội nghề nghiệp) và Professional Engineer (kỹ sư đang được kiểm chứng, nghĩa là được sự thừa nhận của những hiệp hội nghề nghiệp như hội kỹ sư cơ khí… sau khi trải qua kỳ thi sát hạch của hiệp hội nghề nghiệp đó hoặc đã trải qua những kỳ sát hạch trình độ chuyên ngành do chính phủ tổ chức).
Nếu như theo chuẩn trình độ nghề nghiệp quốc gia, Bachelor/Engineer tương hợp bậc 6 thì Professional Engineer nên tương hợp bậc 7 (tương đương với thạc sĩ). Có như vậy thì mới khích lệ được người lao động có tinh thần nâng cao trình độ chuyên ngành của mình mà không cần phải chạy theo văn bằng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét